Thứ sáu, 15/08/2025 - 00:52:08

Online: 280
Lượt truy cập: 9848961
Sản phẩm: 170
Chào hàng: 101
Thành viên: 94
Thành viên mới: Q&T company

TIN TỨC >>Doanh nghiệp >> Doanh nghiệp cần biết

Những chính sách kinh tế và tình hình xuất khẩu sang Australia (22/07/2015)

Theo số liệu thống kê từ TCHQ Việt Nam, tính từ đầu năm cho đến hết tháng 5/2015, Việt Nam đã xuất khẩu sang Australia 1,3 tỷ USD, giảm 16,04% so với cùng kỳ năm trước.

Việt Nam xuất khẩu sang Australia chủng loại hàng hóa như dầu thô, điện thoại và linh kiện, máy vi tính sản phẩm điện tử, giày dép, hàng thủy sản… trong đó nếu không kể mặt hàng dầu thô, thì điện thoại các loại và linh kiện chiếm thị phần lớn, tới 21,3% thị phần, đạt 275,8 triệu USD, tăng 59,9% so với cùng kỳ; kế đến là mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, đạt 93,3 triệu USD, tăng 202% - đây cũng là mặt hàng có kim ngạch tốc độ tăng trưởng mạnh…
Nhìn chung, 5 tháng 2015, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Australia đều tăng trưởng ở hầu hết các chủng loại mặt hàng, số chủng loại hàng hóa có tốc độ tăng trưởng dương chiếm tới 55%, trong đó nhóm hàng nông sản chiếm phần lớn, trên 30%, gồm có: gỗ và sản phẩm gỗ, hạt điều, hạt tiêu, gạo đặc biệt hạt tiêu có mức tăng trưởng vượt lên với tốc độ tăng 33,97%.
Ngược lại, xuất khẩu hàng máy ảnh, máy quay phim và linh kiện sang Australia lại có tốc độ giảm mạnh nhất, giảm tới 84,93%.
Thống kê sơ bộ từ TCHQ về tình hình xuất khẩu sang Australia 5 tháng 2015 – ĐVT: USD
Mặt hàng
XK 5T/2015
XK 5T/2014
+/- (%)
Tổng cộng
1.291.936.667
1.538.727.618
-16,04
Dầu thô
353.619.187
776.663.687
-54,47
Điện thoại các loại và linh kiện
275.801.429
172.480.617
59,90
Máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện
93.304.930
30.896.071
202,00
Giày dép các loại
65.429.955
48.438.728
35,08
Hàng thủy sản
62.149.354
88.733.128
-29,96
Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác
61.341.128
43.993.094
39,43
Hàng dệt, may
55.128.004
48.327.141
14,07
Gỗ và sản phẩm gỗ
53.570.318
46.972.351
14,05
Hạt điều
41.965.735
40.597.371
3,37
Kim loại thường khác và sản phẩm
23.034.726
13.132.442
75,40
Túi xách, ví, vali, mũ và ô dù
16.992.279
10.783.659
57,57
Phương tiện vận tải và phụ tùng
16.259.688
27.532.035
-40,94
Sản phẩm từ chất dẻo
15.893.990
14.359.629
10,69
Cà phê
13.615.513
12.130.479
12,24
Giấy và các sản phẩm từ giấy
10.474.784
10.050.053
4,23
Sản phẩm từ sắt thép
9.838.267
22.605.335
-56,48
Clanke và xi măng
6.930.893
7.152.439
-3,10
Hàng rau quả
6.701.135
7.149.772
-6,27
Hạt tiêu
6.481.452
4.837.975
33,97
Đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận
6.156.904
4.830.565
27,46
Đá quý, kim loại quý và sản phẩm
5.762.834
7.255.229
-20,57
Sắt thép các loại
5.439.604
15.105.721
-63,99
Sản phẩm nội thất từ chất liệu khác gỗ
4.932.364
4.128.096
19,48
Sản phẩm hóa chất
4.914.648
5.751.873
-14,56
Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc
4.579.809
4.901.549
-6,56
Sản phẩm từ cao su
4.164.408
4.881.351
-14,69
Sản phẩm gốm sứ
3.890.530
4.377.047
-11,12
Dây điện và dây cáp điện
3.544.030
2.425.852
46,09
Sản phẩm mây, tre, cói thảm
3.494.731
3.418.416
2,23
Gạo
1.968.637
1.813.099
8,58
Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày
1.952.169
4.134.325
-52,78
Chất dẻo nguyên liệu
1.871.951
1.961.517
-4,57
Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện
60.779
403.340
-84,93
 
Tính đến thời điểm này, Việt Nam đã tham gia ký kết 10 Hiệp định Thương mại tự do (FTA), trong đó có 6 FTA đa phương và 4 song phương. Đây được coi như những "con đường lớn” cho hàng Việt lan tỏa ra khắp thế giới. Trong đó, Hiệp định Khu vực thương mại tự do ASEAN - Australia - New Zealand (AANZFTA): Năm 2018, Việt Nam xóa bỏ thuế quan cho 85% dòng thuế.
Với mục tiêu hội nhập 12 thị trường nhỏ thành một thị trường lớn, AANZFTA được ký kết ngày 27/2/2009 và có hiệu lực từ ngày 1/1/2010.
AANZFTA là hiệp định khu vực đầu tiên mà ASEAN có mức độ cam kết toàn diện với một đối tác ngoài khối. Theo Hiệp định, các bên cam kết từng bước tự do hóa thuế quan và xóa bỏ ít nhất 90% thuế suất của tất cả các dòng thuế theo lộ trình. Đặc biệt, Australia và New Zealand đã đồng ý tạo thuận lợi cho dòng luân chuyển hàng hóa thông qua việc áp dụng các điều khoản cụ thể về quy tắc xuất xứ, thủ tục hải quan, các biện pháp SPS, tiêu chuẩn kỹ thuật và thủ tục đánh giá hợp chuẩn. Đây là cam kết có ý nghĩa lớn với hàng hóa Việt Nam bởi Australia và New Zealand là hai trong những nước có yêu cầu về SPS, về tiêu chuẩn kỹ thuật chặt chẽ nhất trên thế giới.
Về phía mình, danh mục cắt giảm thuế quan của Việt Nam chiếm tới 90% số dòng thuế, trong đó 85% số dòng thuế sẽ xóa bỏ thuế quan vào năm 2018 và 5% sẽ xóa bỏ vào năm 2020. Các mặt hàng thuộc Lộ trình nhạy cảm thường của Việt Nam sẽ được giảm thuế dần dần xuống mức thuế suất cuối cùng 5% vào năm 2022, bao gồm hải sản, thịt cá đóng hộp, một số loại dược phẩm, khí dầu mỏ, nhựa nguyên liệu, săm lốp, giấy, một số loại sắt thép, sản phẩm sắt thép, phụ tùng, động cơ ôtô, xe máy, ôtô trọng tải lớn, xe chuyên dụng, xe máy phân khối lớn.
Các mặt hàng thuộc Lộ trình nhạy cảm cao của Việt Nam sẽ được duy trì mức thuế suất cao, bao gồm các mặt hàng là thịt gà, hoa quả (cam, quýt), rượu bia, thuốc lá điếu, đường, sắt thép, ôtô chở người, xe tải dưới 10 tấn, tàu thuyền đánh bắt thủy sản.
Mặt khác, Việt Nam sẽ xóa bỏ thuế quan vào năm 2016 cho một số sản phẩm như thịt bò, thịt cừu, sữa nguyên liệu, sản phẩm sữa, gỗ ván dăm cho Australia và New Zealand.
Để giúp cho doanh nghiệp xuất khẩu hiểu thêm về thị trường Australia, xin giới thiệu một số chính sách kinh tế của Australia trong năm 2015 (thông tin từ Thương vụ Việt Nam tại Australia):
Chính sách tài khóa 2015
Khẩu hiệu trong chính sách tài khóa 2015 của Australia là “Việc làm, Tăng trưởng và Cơ hội”.
Để hỗ trợ khuyến khích đầu tư, Chính phủ đưa ra gói ngân sách 5,5 tỷ AUD, trong đó có 5 tỷ hỗ trợ bằng cách cắt giảm thuế để tạo việc làm và thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Ngoài ra Chính phủ cũng trợ cấp lương cho các lao động mới được nhận vào làm việc tại các doanh nghiệp trong thời gian 6 tháng đầu tiên. Chính phủ còn có gói 300 triệu AUD cho Chiến lược tạo việc làm cho thanh niên để giúp đối tượng này tìm kiếm việc làm thuận lợi hơn.
Chính phủ Australia cũng đưa ra Chương trình cải cách hệ thống thuế trong đó có Luật tránh thuế đa quốc gia/ Multinational Anti-Avoidance Law, nhằm ngăn chặn tình trạng các công ty đầu tư của nước ngoài, công ty đa quốc gia hoạt động trên lãnh thổ Australia tìm cách tránh nộp thuế.
Hoạch định chính sách tiền tệ
Chính phủ Australia chủ trương là chính sách tiền tệ vừa phải đảm bảo góp phần thực hiện mục tiêu lạm phát trung hạn vừa phải làm sao cho không hạn chế hoạt động kinh tế một cách không cần thiết.
Tỷ lệ lãi suất và tỷ giá hối đoái cần phải hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế bền vững. Tăng trưởng bền vững luôn gắn liền với việc duy trì áp lực lạm phát trong tầm kiểm soát.
Duy trì tỷ lệ lãi suất thấp
Trong năm 2014 và tiếp tục trong nửa đầu 2015, nền kinh tế đang bị ảnh hưởng nặng nề của suy thoái kinh tế, đặc biệt là giảm giá hàng xuất khẩu trong đó đặc biệt là quặng sắt, nguồn thu lớn của Australia. Sản lượng quặng sắt của Australia chiếm 1/3 sản lượng quặng của toàn cầu. Mặt hàng này là một trong những động lực chính cho tăng trưởng kinh tế và là nguồn thu quốc gia của Australia trong suốt 10 năm qua.
Sự suy yếu của sản xuất trong nước, đặc biệt là ngành khai thác mỏ, cộng thêm việc USD tăng giá đã tạo áp lực cho đồng AUD, làm cho AUD liên tục bị mất giá. Tuy nhiên chính phủ Australia không có biện pháp can thiệp trực tiếp để giữ hoặc nâng tỷ giá hối đoái. Biện pháp của Australia chủ yếu tập trung vào việc kiểm soát lãi suất sao cho hợp lý.
Trong bối cảnh cầu tiêu dùng trong nước và cầu từ thị trường nước ngoài yếu đi, Chính phủ Australia chấp nhận tỷ giá hối đoái AUD/USD thấp, giúp khuyến khích xuất khẩu hàng hóa của Australia ra nước ngoài do hàng hóa của Australia trở nên rẻ hơn so với trước đây khi tỷ giá cao. Thực tế xuất khẩu của Australia tính đến cuối quý I năm 2015 vẫn tăng mạnh, một phần là chính sách tỷ giá hối đoái thấp, một phần có một số cơ sở khai thác mới cho ra sản phẩm, bổ sung vào nguồn xuất khẩu trong đó có cơ sở chế biến khí hóa lỏng.
Do lạm phát vẫn trong tầm kiểm soát, dự kiến cả năm 2015 là 2,25-2,5%, nên Chính phủ Australia vẫn tiếp tục hạ lãi suất để khuyến khích đầu tư trong nước, kích cầu tiêu dùng của hộ gia đình trong đó có khuyến khích cho vay đầu tư bất động sản, một trong những động lực thúc đẩy tăng trưởng trong thời gian gần đây của Australia. Tốc độ tăng trưởng tín dụng đầu tư bất động sản vẫn tăng trưởng ổn định, tăng 10% mỗi năm và dự kiến vẫn giữ đà tăng trưởng này trong những năm tới, trong đó chủ yếu tập trung vào khu vực các thành phố lớn như Sydney và Melbourne. Ngoài ra chính sách tỷ lệ lãi suất thấp cũng giúp kích cầu tiêu dùng trong nước. Các chỉ số thống kê cho thấy chi tiêu dùng trong nước vẫn khả quan, mặc dù nền kinh tế Australia đang ở trong thời kỳ khó khăn.
Liên kết kinh tế/Mở rộng thị trường xuất khẩu
Trong những năm qua đặc biệt là năm 2014, Australia đã tích cực đàm phán và đã ký kết FTA với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Nhờ các hiệp định này xuất khẩu sản phẩm có thể mạnh của Australia như khai thác mỏ, năng lượng và nông nghiệp của Australia sẽ tiếp cận vào các thị trường này dễ dàng được hưởng tỷ lệ lãi suất thấp hơn trước đây. Bên cạnh đó Australia cũng là nước tham gia Hiệp định đối tác xuyên Thái bình dương TPP. TPP sẽ mở ra cơ hội cho xuất khẩu hàng nông sản và nguyên liệu thô sang các nước thành viên trong đó có cả việc xuất khẩu hàng nông sản của Australia sang Mỹ, quốc gia được xem là vẫn thực hiện chính sách bảo hộ hàng nông sản.
Quan hệ với Ngân hàng AIIB: Ngân hàng đầu tư hạ tầng châu Á
Ý tưởng thành lập AIIB đã được Trung Quốc đưa ra vào năm 2013 nhân chuyến thăm Indonesia bên lề hội nghị APEC và đã được ra mắt vào tháng 10/2014 tại Bắc Kinh. Vốn ban đầu dự kiến là 100 tỷ USD. Tính đến ngày 15/4/2015 đã có 57 nước thành viên sáng lập đăng ký trong đó gồm hầu hết các nước châu Á trừ Bắc Triều Tiên và Đài Loan bị từ chối và hầu hết các nước lớn ngoài châu Á là Mỹ và Canada. AIIB dự kiến sẽ chính thức đi vào hoạt động vào cuối năm 2015…
  • Nguồn tin: nhanhieuviet.gov.vn
  • Thời gian nhập: 22/07/2015
  • Số lần xem: 933