Việt Nam xuất khẩu gạo tới trên 80 quốc gia và vùng lãnh thổ nhưng phải cạnh tranh gay gắt với Thái Lan, Ấn Độ, Pakistan… và trong tương lai gần là Myanmar, Campuchia…. Mức độ tham gia của gạo Việt Nam vào chuỗi giá trị toàn cầu yếu, chủ yếu ở phân khúc trung bình và thấp, gạo chất lượng cao chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Chính sách tập trung đầu mối xuất khẩu đã làm giảm tính năng động và cạnh tranh bằng chất lượng của các doanh nghiệp tư nhân. Trên 200 doanh nghiệp xuất khẩu gạo nhưng ít sử dụng thương hiệu riêng do phụ thuộc quá nhiều vào các hợp đồng Vinafood đấu thầu…. Gạo Việt Nam cũng chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn chất lượng cao của một số thị trường cao cấp như Nhật Bản, Singapore, châu Âu….
Ngay tại thị trường trong nước, gạo Việt Nam cũng bị đánh giá thấp hơn gạo nhập khẩu từ Thái Lan, Campuchia, Đài Loan, Nhật Bản… dẫn đến hiện tượng gạo sản xuất ở Việt Nam nhưng sử dụng bao bì nước ngoài bán trong các siêu thị. Rất ít thương hiệu gạo Việt Nam được người tiêu dùng biết đến.
Theo ông Herby Neubacher - Chuyên gia cao cấp về truyền thông chuyên ngành thực phẩm của châu Âu, gạo Việt Nam mặc dù có thừa yếu tố độc đáo để gây ấn tượng với người tiêu dùng nhưng thường chỉ được xuất hiện với một cái tên hết sức nhạt nhẽo “gạo trắng hạt dài”, và được đóng “mác” của những doanh nghiệp lương thực trung gian thuộc các quốc gia khác.
Nhằm tăng khả năng nhận diện, tiếp thị, cạnh tranh tại thị trường xuất khẩu và nội địa, tăng hiệu quả sản xuất và giá trị của gạo, Chính phủ đã phê duyệt ‘Đề án phát triển thương hiệu gạo Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030’. Tuy nhiên, việc xây dựng thương hiệu quốc gia cho gạo Việt vẫn rất gian nan. Do có quá nhiều giống lúa được đưa vào sản xuất, không có vùng nguyên liệu đủ lớn, gạo thành phẩm là sự phối trộn của nhiều giống trong quá trình chế biến dẫn đến chất lượng gạo thấp, không đồng đều.
Để xây dựng thương hiệu quốc gia cho gạo Việt Nam, công tác chọn tạo giống lúa cần hướng chất lượng và bám sát nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng cần năng động tự tìm thị trường và đầu tư thích đáng vào marketing. TS. Đào Thế Anh, Phó Viện trưởng Viện Cây lương thực - cây thực phẩm cho rằng, các doanh nghiệp tư nhân hiện nay đã làm khá tốt, vì vậy cần được đối xử bình đẳng với doanh nghiệp nhà nước.
Sự độc quyền của doanh nghiệp nhà nước nhưng lại không gắn với quản lý chất lượng và vùng nguyên liệu chỉ phù hợp với chiến lược quản lý gạo khối lượng lớn, chất lượng không phân biệt như các hợp đồng chính phủ. Các ‘nhạc trưởng’ trong chuỗi giá trị lúa gạo phải là các doanh nghiệp hay hợp tác xã có chiến lược phát triển chất lượng rõ ràng và sẵn sàng đầu tư dài hạn chứ không phải các doanh nghiệp cung ứng gạo cho hợp đồng chính phủ hay chất lượng thấp, TS. Đào Thế Anh nhấn mạnh.
Theo TS. Đào Thế Anh, thương hiệu quốc gia gạo Việt Nam nhằm giúp gạo Việt Nam xuất khẩu với giá trị cao và có chỗ đứng vững vàng ở thị trường thế giới nhưng nó không làm thay đổi vai trò của thương hiệu doanh nghiệp, hợp tác xã cũng như chỉ dẫn địa lý; phải dựa trên tập hợp phong phú và đa dạng về chất lượng của các loại gạo bản địa kèm theo một hệ thống kiểm soát chất lượng tốt từ trung ương đến địa phương và dọc theo chuỗi giá trị.
Chuyên gia cao cấp về truyền thông chuyên ngành thực phẩm của châu Âu Herby Neubacher: ‘Gạo Việt Nam đừng làm nàng công chúa ngủ trong rừng nữa, hãy thức dậy và làm cho toàn thế giới biết đến mình’.