I. Gạo Việt trước cơ hội lớn
Ưu đãi lớn về thuế
Với khu vực thị trường rộng lớn gồm 12 quốc gia, TPP được nhận định sẽ tạo cơ hội lớn cho gạo XK Việt Nam, đặc biệt trong tình hình khó khăn như hiện nay bởi Thái Lan và Ấn Độ - hai đối thủ lớn nhất của gạo Việt chưa tham gia TPP. Bên cạnh đó, với sự ưu đãi lớn về thuế, gạo Việt Nam sẽ có giá cả cạnh tranh hơn.
Đơn cử như tại thị trường Mỹ, khi TPP có hiệu lực, mức thuế 7% hiện nay sẽ ngay lập tức giảm xuống 0%. Cùng với Mỹ, 7/12 nước khác cam kết xóa thuế nhập khẩu gạo ngay lập tức, trong khi mức thuế này đang dao động ở mức trên dưới 40%. Riêng Chile, Mexico, sẽ xóa dần thuế quan theo lộ trình 8 -10 năm, thay vì mức thuế 34% như hiện nay.
Cơ hội cho gạo Việt Nam XK sang các quốc gia thuộc khu vực Liên minh Kinh tế Á Âu (EEU) khi FTA Việt Nam – EEU hiệu lực cũng rất lớn. Theo các cam kết trong FTA Việt Nam – EEU, các thành viên EEU sẽ dành cho Việt Nam lượng hạn ngạch tổng là 10.000 tấn gạo được hưởng thuế suất ưu đãi 0%. Sau khi XK đủ lượng này, sản phẩm gạo XK sẽ chịu mức thuế 11,7% và VAT 10%- thấp hơn đáng kể so với con số 40% hiện nay.
Riêng với FTA Việt Nam – EU, khi có hiệu lực, EU sẽ dành cho Việt Nam một lượng hạn ngạch đáng kể và miễn thuế hoàn toàn đối với gạo xay xát, gạo chưa xay xát và gạo thơm. Riêng gạo tấm, thuế nhập khẩu sẽ được xóa bỏ theo lộ trình. Đối với sản phẩm từ gạo, EU sẽ đưa thuế nhập khẩu về 0% trong vòng 7 năm.
Vướng ở thương hiệu
Cơ hội rất lớn, tuy nhiên không dễ nắm bắt bởi nhiều quốc gia yêu cầu rất cao về chất lượng gạo XK. Trong khi đó, gạo Việt Nam chưa có thương hiệu quốc gia đủ mạnh.
Đơn cử như EU, dù là thị trường rộng lớn và sẵn sàng “mở hầu bao” nhưng khu vực này yêu cầu chất lượng khắt khe nhất thế giới. Nhìn vào những “bạn hàng” của EU gần đây, có thể thấy hầu hết là những quốc gia liên tục được xếp hạng có sản phẩm gạo ngon nhất thế giới như: Myanmar, Campuchia… Ngoài ra, với Nhật Bản – quốc gia trong khối TPP, gạo Việt phải đáp ứng trên dưới 500 tiêu chí mới được cấp phép nhập khẩu.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh nhìn nhận: XK gạo của Việt Nam đang ở phân khúc trung bình và thấp. Gạo XK chất lượng cao chiếm tỷ trọng thấp, chất lượng chưa đồng đều. Mặc dù Việt Nam đã trở thành 1 trong 3 quốc gia hàng đầu trong XK gạo nhưng đến nay, Việt Nam vẫn chưa có một thương hiệu gạo quốc gia nào. Hạn chế này khiến gạo Việt Nam khó tận dụng các cơ hội từ hội nhập.
Nhằm tăng sức cạnh tranh cho gạo XK, Chính phủ đã ban hành Quyết định 706/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển thương hiệu gạo Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030. Theo đó, giống gạo Jasmine, lúa thơm, nếp đặc sản đã được chọn để xây dựng thành thương hiệu gạo quốc gia Việt Nam, tăng sức cạnh tranh cho hạt gạo Việt trước bối cảnh hội nhập sâu rộng.
Cơ hội rất lớn, tuy nhiên không dễ nắm bắt bởi nhiều quốc gia yêu cầu rất cao về chất lượng gạo XK. Trong khi đó, gạo Việt Nam chưa có thương hiệu quốc gia đủ mạnh.
II. Chuyên nghiệp hóa hoạt động kinh doanh
Chuyên nghiệp hóa hoạt động kinh doanh, xuất khẩu (XK) gạo bằng cách liên kết chặt chẽ giữa nông dân và doanh nghiệp (DN) XK được cho là một trong những giải pháp quan trọng giúp nâng cao chất lượng gạo XK.
Campuchia – một trong những quốc gia liên tục lọt Top quốc gia có gạo ngon nhất thế giới- đã phát triển thương hiệu gạo bằng cách chọn lựa kỹ càng giống lúa, sau đó cấp vốn cho 8 DN đầu tư vùng nguyên liệu, công nghệ chế biến để sản xuất ra loại gạo có chất lượng. Gạo được một ủy ban kiểm tra uy tín thẩm định kỹ trước khi đưa ra thị trường.
Việt Nam, trước đây, theo quy định tại Khoản 1 Điều 10 Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23/1/2006 của Chính phủ, thương nhân thuộc các thành phần kinh tế đều được XK gạo, không quy định điều kiện kinh doanh. Về vấn đề này, Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải - nhận định: Bên cạnh sự tự do, thông thoáng, cơ chế này cũng bộc lộ nhiều bất cập khi nhiều DN chỉ tham gia XK khi thị trường thuận lợi. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn tới tình trạng tới mùa thu hoạch nếu thị trường khó khăn, nông dân lại rơi vào tình cảnh “được mùa, rớt giá”.
Khắc phục tình trạng này, Chính phủ ban hành Nghị định số 109/2010/NĐ-CP ngày 4/11/ 2010 về kinh doanh XK gạo, nhằm thiết lập hành lang pháp lý khắc phục các bất cập, hạn chế trong hoạt động kinh doanh XK gạo. Nghị định yêu cầu doanh nhân phải có kho chứa, cơ sở xay xát mới được cấp giấy chứng nhận là thương nhân XK gạo. Quá trình thực hiện nghị định đến nay cho thấy: Việc quy định các điều kiện kinh doanh XK gạo đã phát huy tác dụng tích cực, sàng lọc những thương nhân có năng lực, định hướng đầu tư lâu dài phục vụ lĩnh vực kinh doanh XK gạo. Mặt khác, thương nhân kinh doanh XK gạo cũng góp phần tích cực tiêu thụ lúa gạo cho người nông dân, góp phần bảo đảm ổn định thị trường lúa gạo trong nước.
Bên cạnh những kết quả tích cực, một số vấn đề hạn chế đã nảy sinh sau khi áp dụng nghị định như: Nhiều thương nhân tiếp tục đầu tư xây dựng kho chứa, cơ sở xay xát để được cấp giấy chứng nhận, gây lãng phí cho đầu tư xã hội. Số lượng thương nhân đề nghị cấp giấy chứng nhận ngày càng tăng trong khi năng lực, hiệu quả hoạt động kinh doanh XK gạo còn hạn chế.
Trước tình hình trên, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Công Thương ban hành Quyết định số 606/QĐ-BCT ngày 21/1/2015. Quyết định nêu rõ, DN ngoài tiêu chí hạ tầng như kho chứa, dây chuyền sản xuất phải thêm cả lộ trình vùng nguyên liệu.
Quy định trên mang lại những lợi ích cụ thể, bền vững khi liên kết người nông dân và DN theo hướng cùng có lợi. Nông dân không lo được mùa rớt giá, DN yên tâm về nguồn gạo. Đặc biệt, kết nối giữa DN và nông dân xây dựng vùng nguyên liệu sẽ giúp sản xuất ra những loại gạo thị trường thực sự có nhu cầu vì DN là người hiểu rõ nhất thị trường muốn gì.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải: Nhằm tạo thuận lợi nhất cho DN, Bộ Công Thương sẽ rà soát, đánh giá quá trình thực hiện các cơ chế, quy định hiện hành để đề xuất giải pháp xử lý, điều chỉnh phù hợp; tạo thuận lợi, phát huy tối đa năng lực sản xuất, XK của DN.